Có lẽ câu chuyện lớn nhất đang được bàn tán ở tinh tế trong thời gian vừa qua chính là về sự kiện tranh chấp pháp lý giữa Apple và Samsung và cũng vì chuyện này mà hòa khí trong diễn đàn không ít lần trở nên vô cùng căng thẳng. Một số bạn bè thắc mắc với mình về bằng sáng chế của Hoa Kỳ, điều đó có hợp lý không ? Sau một thời gian tìm tòi, mình mạn phép được viết bài này để cùng mọi người bàn luận về câu hỏi đó. Do không phải chuyên môn về sở hữu trí tuệ, bài viết chắc chắn sẽ có những sai sót, mình đã chú thích nguồn những luận điểm của mình, mời anh em đọc và cho ý kiến.
Mình xin được trình bày những vấn đề sau :
-Tổng quát về quyền sở hữu trí tuệ nói chung, mục đích của pháp luật bảo hộ.
-Lịch sử của quyền sở hữu trí tuệ và sự phát triển của bằng sáng chế phần mềm
-Nói riêng về quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ.
-Tính hợp lý của bằng sáng chế về phần mềm của Hoa Kỳ.
Mình xin được trình bày những vấn đề sau :
-Tổng quát về quyền sở hữu trí tuệ nói chung, mục đích của pháp luật bảo hộ.
-Lịch sử của quyền sở hữu trí tuệ và sự phát triển của bằng sáng chế phần mềm
-Nói riêng về quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ.
-Tính hợp lý của bằng sáng chế về phần mềm của Hoa Kỳ.
-Nhắc lại về vụ việc giữa Apple vs Microsoft, một phán quyết khác giữa Apple và Samsung về bằng sáng chế. Câu hỏi của tương lai ?
1.Quyền sở hữu trí tuệ là gì ?
Quyền sở hữu trí tuệ được xác lập chủ yếu dựa trên pháp luật quốc gia, hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ ở các nước khác nhau, điều đó dẫn đến một bằng sáng chế có thể hợp pháp ở nước này, nhưng lại không hợp pháp ở nước kia, vì vậy việc tòa án ở mỗi nơi lại có phán quyết khác nhau là chuyện thông thường. Quyền sở hữu trí tuệ là công cụ bảo vệ lợi ích của người phát minh và dung hòa với lợi ích phát triển cộng đồng, tranh chấp sẽ phát sinh khi cán cân này bị mất cân bằng.
Tuy nhiên, do đặc tính là tri thức nhân loại, có thể nói rằng ở hầu hết các nước, quyền mang tính chất quốc gia đó không chỉ tồn tại như một hệ quả của nội luật mà còn là các nghĩa vụ quốc tế đa phương, song phương hoặc khu vực. Ở một số hiệp hội khu vực như Liên minh châu Âu, pháp luật khu vực ví dụ như Hiệp ước về sáng chế toàn Euro(E.P.C)có thể có hiệu lực áp dụng trực tiếp tại các quốc gia hoặc có thể đặt ra các tiêu chuẩn về sở hữu trí tuệ cho pháp luật quốc gia, và theo chiều ngược lại, một khi đã làm đúng theo pháp luật khu vực thì nghiễm nhiên một lệnh hợp pháp của tòa án quốc gia lại mang tính hợp pháp trên toàn khu vực. Chính vì vậy, bạn sẽ thấy đôi khi tòa án ở Đức lại có thể đưa ra phán quyết cho toàn khu vực châu Âu.
2. Quyền sở hữu trí tuệ có từ bao giờ ?
Quyền sở hữu trí tuệ đã được biết tới từ thời La mã khi các nhà buôn Roman tạo thương hiệu cho mình và bảo vệ nó để tránh khỏi việc mất uy tín với người mua hàng. Tuy nhiên, pháp luật quốc tế về sở hữu trí tuệ thực sự được coi trọng trong khoảng hơn 130 năm đổ về đây, kể từ khi có Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ra đời năm 1883 và Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật năm 1886. Luật về bằng sáng chế liên quan đến phần mềm mới có tầm 30 năm trở lại đây, và thực sự nóng nhất trong khoảng thời gian Apple thúc đẩy việc kiện tụng các công ty đối thủ. Trong vòng 30 năm, số lượng bằng trong lĩnh vực sáng chế về phần mêm đã lên đến hàng trăm nghìn. Hàng năm, tính riêng tại Mỹ, số lượng bằng sáng chế về phần mềm được nộp lên tới 20.000, số bằng sáng chế được cấp hiện đã trên 200.000 bằng sáng chế.
Hoa kỳ là một đất nước đặc biệt, họ hầu như không thừa nhận pháp luật quốc tế về sở hữu trí tuệ mà chỉ ngụ ý rằng họ đã chấp nhận chúng. Trên thế giới, sự xung đột pháp luật về nền sở hữu trí tuệ giữa các nước chủ yếu diễn ra xung quanh Hoa Kỳ. Điển hình như vụ tranh chấp về thời hạn bảo hộ sáng chế giữa Hoa Kỳ và Canada năm 2000 khi thời hạn bảo hộ của Canada ít hơn của Hoa Kỳ dẫn đến các công ty Hoa Kỳ nộp đơn bên Canada được bảo hộ ngặn hớn; tranh chấp giữa EC và Hoa Kỳ về Điều 110(5) Luật bản quyền Hoa Kỳ; tranh chấp giữa EC và Hoa Kỳ về điều 211 Đạo luật Omnibus Appropriations 1998 vào năm 2002 liên quan tới việc trừng phạt kinh tế Cuba trái với pháp luật quốc tế … Mình nói điều này để các bạn hình dung ra phần nào về Hoa Kỳ, đó là đất nước của kinh tế, các quyền lợi kinh tế luôn được đặt lên hàng đầu
Quảng cáo
3. Pháp luật về bằng sáng chế của Mỹ:
Sau phần mở đầu tổng quát, chúng ta bắt đầu đi vào thêm một chút về luật bằng sáng chế nói riêng của Hoa Kỳ. Theo pháp luật Mỹ một bằng sáng chế là một quyền sở hữu trí tuệ được cấp bởi chính phủ Hoa Kỳ cho người sáng chế trong một khoảng thời gian nhất định. Chúng cần có tính mới, tính không hiển nhiên và tính hữu dụng. Chúng ta có thể so sánh với các đặc tính của pháp luật về sáng chế của châu Âu, điểm khác biệt dễ thấy là yêu cầu về bằng sáng chế của châu Âu đề cao tính sáng tạo, khắt khe và chặt chẽ hơn Hoa Kỳ, dẫn đến việc từ trước tới nay người nộp đơn xin cấp bằng sáng chế thường hay nộp tại Hòa Kỳ trước khi nộp sang EU.
Hoa Kỳ
- Hữu dụng (useful)
- Tính mới(new)
- Tính không hiển nhiên(Unobivious)
Châu Âu
- Áp dụng trong công nghiệp(Industrial applicability)
- Tính mới(Novelty)
- Tính sáng tạo(Inventive step)
- Đặc tính kỹ thuật(Technical character)
Chi phí cho một lần nộp đơn yêu cầu cấp bằng sáng chế thường là vài ngàn đô và nếu tính cả tiền chi cho văn phòng luật để nộp hộ thì có thể cao hơn kha khá. Vì thế, chi phí cũng là một rảo cản phần nào khiến cho một người không dư dả tự mình theo đuổi và đăng ký một bằng sáng chế.
4. Google với yêu cầu đổi mới về pháp luật sở hữu trí tụê
Gần đây, Google đã lên tiếng về việc muốn bác bỏ đi quyền sở hữu bằng sáng chế về phần mềm (Chi tiết có thể đọc thêm ở đây) và muốn thay thế chúng bằng một hệ thống có ích hơn đối với người dùng. Có lẽ ở đây vẫn có nhiều người chưa hiểu về hàm ý của Google về thứ mà họ muốn loại bỏ nên mình xin được phép đưa ra quan điểm cá nhân của mình.
Như đã có nêu ở trên, bằng sáng chế của Hoa Kỳ được cấp dựa trên 3 đặc tính:
Quảng cáo
- Tính mới(New): Chưa từng có bao giờ
- Tính không hiển nhiên(Unobivious): Không phải tự nhiên mà có được
- Tính hữu ích(Useful): Có liên quan tới hiệu năng sử dụng
a. Sự bảo hộ không rõ ràng:
Thế giới ảo
Chúng ta vẫn thường gọi mảnh đất của phần mềm là thế giới ảo, chính vì là ảo, nên chúng có tính áp dụng rất cao trên nhiều loại thiết bị khác nhau. Nếu ở thế giới thực, một vật chất cứng được cấu tạo từ các nguyên liệu khác nhau và cách sản xuất khác nhau với những mục đích, phân khúc khác nhau sẽ được phân biệt riêng ra; nhưng ở thế giới ảo, thứ mà chúng ta bảo hộ không đến từ gốc mà đến từ phần ngọn – điều mà chúng thể hiện ra. Tôi xin được lấy ví dụ minh họa để các bạn dễ hình dung:
- Ví dụ 1: Bạn có một bằng sáng chế về một loại chai làm từ thủy tinh để đựng axit, một bạn khác có bằng sáng chế về một loại chai làm từ nhựa dùng để đựng nước thường. Kết quả 2 bạn có 2 bằng sáng chế khác nhau, không ai kiện ai.
- Ví dụ 2: Bạn có một bằng sáng chế về tính năng tìm kiếm xuyên suốt trên MacOS, bạn lấy tính năng đó đi kiện tính năng tìm kiếm xuyên suốt được sử dụng trên điện thoại Android với lý do bằng sáng chế đó ảnh hưởng tới điện thoại iPhone.
b. Sự bảo hộ tràn lan:
Khác với sự bảo hộ trong thế giới thực, sự bảo hộ phần mềm tràn lan dưới dạng bằng sáng chế dẫn tới một sản phẩm công nghệ có thể lên tới hàng chục nghìn bằng sáng chế. Chúng ta hãy xét tới từng thuộc tính trong yêu cầu của bằng sáng chế Hoa Kỳ
- Về tính mới: tính mới đề cập đến sự khác với các sáng chế trước đó, tính mới không phải tính sáng tạo, đây gần như là yếu tố duy nhất để một bằng sáng chế phần mềm nộp lên yêu cầu bảo hộ.
- Về tính không hiển nhiên: một phần mềm đương nhiên không hiển nhiên bởi phần phần mềm luôn là sản phẩm nhân tạo, chúng không thể được tạo nên từ những hiểu biết của người bình thường.
- Về tính hữu dụng: tính hữu dụng là đặc tính tương tự với đặc tính có khả năng áp dụng vào công nghiệp, tức là nó có thể được sử dụng với một mục đích nhất định. Với phần mềm, gán cho nó một chức năng không phải là một điều quá khó.
5. Apple và một chút về lịch sử kiện tụng.
Apple là một công ty hàng đầu trong việc cải tiến và hoàn thiện các công nghệ. Hãng không phải là người đi đầu trong việc phát minh ra máy tính cá nhân, chuột máy tính, giao diện đồ họa, cảm ứng điện dung, cảm ứng đa điểm … nhưng hãng luôn là người hoàn thiện chúng đến đơn giản đến mức hoàn hảo.
Vụ kiện giữa Samsung và Apple bây giờ có mang hơi hướng lịch sử như vụ việc xảy ra trong khoảng thời gian 1988-1994 giữa Apple vs Microsoft về cáo buộc Windows 2.0 học theo hơi hướng của Apple Macintosh GUI (các bạn có thể chi tiết bản án tại đây). Chỉ khác là Apple đã thua trong việc cáo buộc, chứ không thắng như bây giờ. Chúng ta hãy cùng nhắc lại vụ việc này, và xem xét hệ quả của nó.
Vụ việc này Apple đã không thể thắng kiện và Apple từng khiếu nại bởi quan tòa đã phân tích giao diện của Windows 2.0 với MAC GUI thông qua từng điểm nhỏ chứ không xem xét trên tổng thể. Tuy nhiên, Apple vẫn chỉ nhận lại được nỗi buồn vì quan tòa đã xem xét dựa trên các thỏa thuận trước đó của Apple và Microsoft trong Windows 1.0. Sau này Apple và Microsoft đã có nhiều thỏa thuận bản quyền chéo với nhau, Microsoft đã từng cứu Apple bằng việc mua lại cổ phiếu không có quyề biểu quyết của Apple với giá trị 150 triệu USD và từng ấy cũng là đủ lý do dù Microsoft có nhiều sản phẩm có các tính năng như của Apple nhưng sẽ không bao giờ bị Apple kiện.
Nhắc tới giao diện của Apple Macintosh, đó chính là sự cải thiện giao diện người dùng của Xerox. Xerox cũng đã từng kiện Apple về sự giống nhau này, cũng như việc Apple sử dụng con chuột (mouse) của Xerox nhưng không thành công. Mình nêu ra điều này để thấy rằng, Apple từ xa xưa đó có truyền thống là một công ty thích kiện tụng và họ kiện tụng hoàn toàn vì kinh tế, chẳng phải vì công lý hay điều gì cả. Và hãy nhìn về quá khứ khi Apple thất bại trong việc buộc tội Microsoft sao chép, Microsoft hiện nay đã trở thành một người khổng lồ lớn mạnh với nhiều sự sáng tạo đáng kể, Apple khi đó đã chăm chăm vào kiện tụng mà quên đi việc sáng tạo, và kết quả họ suýt phá sản, nhưng họ cũng đã không thể ngủ quên, họ bỏ qua những vụ kiện tụng tập trung phát triển rồi trở thành một kẻ hùng mạnh như bây giờ.
Với 2 phán quyết ngược chiều nhau giữa 2 thời kỳ; việc bán quyền sử dụng bằng sáng chế và sử dụng luật sáng chế như trước đây, hay độc quyền bằng sáng chế và sử dụng luật sáng chế với hướng đi hiện nay của Apple; sắp tới sẽ có một điêu được kiểm chứng ngay thôi, đó là việc hệ quả của nó sẽ khiến thế giới và người tiêu dùng được tốt hơn như thế nào ?
Tham khảo tại
Trang 2 tập bài giảng CURRICULUM ON INTELLECTUAL PROPERTY - Professor Michael Blakeney
Trang 3 The Patentability of Software in the U.S and Europe by John Moetteli
Điều 35 U.S.C 41 Patent Law
WTO, Báo cáo của Hội đồng giải quyết tranh chấp, WT/DS50/R, 5 tháng 9 năm 1997, đoạn 7.18
Cnet.com
Wikipedia
USPTO.