nói thêm là bây giờ điện thoại 2.5 triệu của nokia đã được trang bị chip 1Ghz rồi các bác dùng 1 cái tablet chip lõi kép 1Ghz như ipad 2 ko thấy vẫn chưa thể vào web nhanh như điện sao? vẫn có độ trễ và ko thể đọc flash dc. điều đó làm chip 4 lõi 1.4Ghz trở nên vô cùng ý nghĩa đấy.
No la mtb tien phong cho 4 nhan . Neu ko co nhung thu nhu vay thi cong nghe lam sao ma phat trien dc . Ma chip nay thuc te la 5 nhan , mot nhan chay o sung nhip thap giup may tiep kiem pin hon nhieu. May cau hinh khung thi se co nhung ung dung khung danh rieng sao lai ko tot .
---------- Post added at 01:29 AM ---------- Previous post was at 01:20 AM ----------
bạn không hiểu rồi , k phải chip 4 nhân cũng chỉ ngang với chip 2 nhân của apple thôi , bạn nên biết chip trong iphone hay ipad đều không phải của google nha bạn , vấn đề ở đây là apple đã có được sự tối ưu hóa tối đa giữa phần cứng và phần mềm cho các thiết bị của mình vì IOS chỉ có mình Iphone, ipod Touch và Ipad có thôi . còn androi có quá nhiều hãng sản xuất và đương nhiên sự tối ưu hóa về phần cứng và phần mềm k bằng được với IOS
p/s : mình không muốn chê bai hay có ý nói androi kém cỏi ? ngược lại nó rất mạnh và là 1 nền tảng rất phổ biến ý mình nói ở đây là vì adroi là của google nhưng google lại k sản xuất smartphone hay tablel androi(có sx thì cũng là đi thuê ) chính vì thế mà k có sựu nhất quán tối đa đc như IOS của apple !
---------- Post added at 08:25 AM ---------- Previous post was at 08:22 AM ----------
cơm thêm:
''Benchmark là gì?
Là đánh giá sức mạnh của thiết bị phần cứng. Và bạn lưu ý chỉ “sức mạnh” thôi nhé. Bản thân từ này nếu dịch ra nghĩa Việt cũng là “đánh giá”, giống với review. Nhưng benchmark không phải review, benchmark là một phần của review. Bản thân bài review có thể có hoặc không có phần benchmark, nhưng nó vẫn là review.
Ví dụ bài review về chuột hay bàn phím thì tôi vẫn chưa hình dung được “chênh lệch sức mạnh” giữa 2 con chuột (PC) là gì. Tất nhiên bạn vẫn có thể “cố rặn” ra một số thứ như latency, dpi … để nói con này hơn con kia, và gọi đó là “benchmark” thì … ok, đó là cách nghĩ của bạn ! Nhưng trong review không bắt buộc phải kèm benchmark, và khi nói benchmark, tức là chúng ta đang bàn đến sức mạnh phần cứng của thiết bị.
Theo quan điểm của MPC, người nào quan tâm đến benchmark tức là người quan tâm đến lượng thời gian mà họ có, tức benchmark để xem thiết bị nào làm việc nhanh hơn. Quan điểm này hợp lý nhưng hơi “sót” nếu chúng ta bàn đến benchmark GPU với game.
Benchmark game thì chúng ta không thể nói GPU nào giúp ta "chóng" về nước ...
Các dạng benchmark
Phân loại thì có nhiều cách, tuỳ thuộc vào người đọc / người benchmark đi theo tiêu chí nào. Benchmark theo đối tượng phần cứng (CPU, GPU, RAM, HDD …), theo phần mềm (game, văn phòng, thiết kế …), theo người xem (chuyên nghiệp, phổ thông, gamer …).
Nhưng để đơn giản vấn đề, người ta hay chia ra 2 nhóm benchmark chính là benchmark thực tế (real-world) hay giả lập (synthetic / artificial). Thực tế là các ứng dụng mà người dùng có thể gặp hàng ngày. Còn giả lập là các gói benchmark chỉ thuần ý nghĩa benchmark, ngoài việc dùng chúng để so sánh sức mạnh ra, bạn không dùng chúng vào việc gì khác (tạo ra nội dung, trừ các tester).
3R khi benchmark
3R ở đây khác hẳn với 3R trong quản lý môi trường (bạn google thì biết – Reduce, Reuse, Recycle). 3R trong benchmark PC gồm : Real-world (thực tế), Relevance (thích hợp) và Repeatability (có khả năng lặp lại). Tức là như thế nào ?
Thực tế
Đôi khi bạn nhìn vào một benchmark SuperPI giữa 2 model CPU, có bao giờ bạn hỏi : “SuperPI có ứng dụng thực tế nào không ?” Câu hỏi này sẽ gây nên tranh cãi khá nhiều. Bạn không chắc liệu những đoạn code viết nên SuperPI có dùng trong phần mềm thường dùng của bạn hay không. Điều này tuỳ thuộc vào các lập trình viên. Vấn đề là kết quả benchmark mà bạn nhìn thấy có cần thiết với bạn hay không ? Nếu bạn không bao giờ dùng đến ứng dụng đó, vậy nó có quan trọng với bạn không ?
Bạn có cần điểm Cinebench nếu không bao giờ render 1 tấm hình ?
Còn một điều nữa : tuy không thực sự hữu dụng trong thực tế, nhưng các kết quả benchmark giả lập vẫn gây “xao xuyến” khá nhiều cho người đọc, vì tâm lý “thà có (mạnh hơn) còn hơn không”. Benchmark giả lập được các nhà sản xuất chú trọng đến nhiều vì tính đơn giản – đồng nhất trong thiết lập giữa nhiều hệ thống. Do đó chúng trở thành những công cụ PR khá hiệu quả và tạo ra một hệ quả “thiếu lành mạnh” : nhà sản xuất chỉ tập trung tối ưu sản phẩm của họ cho kết quả giả lập mà quên đi năng lực thực tế. Điều này đã từng xảy ra khi VIA thay đổi CPUID của họ thành các model của Intel / AMD và nhận thấy ứng dụng PCMark 2005 đã “ưu ái” các sản phẩm của Intel hơn (mặc dù tất cả các benchmark đều thực hiện trên cùng 1 con chip).
Thích hợp
Kết quả benchmark game nào thể hiện sức mạnh nào của HDD / ODD ? Hay GPU thì ảnh hưởng gì đến tốc độ làm việc của Microsoft Excel ? Có thể là trong tương lai, điều này có xảy ra thật. Song trong bối cảnh hiện tại, các phép benckmark ấy không đem lại ý nghĩa nếu chúng chẳng liên quan gì đến chủ đề của bài benchmark / review.
Có khả năng lặp lại
Kết quả benchmark có thể khá ấn tượng. Nhưng bao nhiêu hệ thống có thể lặp lại chúng ? Nói cách khác, chúng ta có thể so sánh kết quả này được với ai ? Bạn không thể nói chiếc card GTX 285 tính toán Tessellation kém hơn HD 5570 vì con chip GT200 không hỗ trợ Tessellation. Đại khái, kết quả benchmark phải có giá trị so sánh.
Thêm vào đó, là độ biến thiên kết quả giữa các lần lặp lại. Nếu cùng 1 hệ thống mà mỗi lần benchmark, kết quả trả về chênh lệch đến vài chục % là điều không thể chấp nhận cho công cụ ấy. Bản thân người benchmark phải đặt ra “hạn ngạch sai số chấp nhận” được cho riêng mình. 3% hay 5% ?''