ROKS Incheon (FFG-811) là chiếc khu trục hạm hộ vệ bờ biển lớp Incheon thuộc biên chế hải quân Hàn Quốc. Đây là lớp tàu chiến được phát triển trong dự án Future Frigate eXperimental (FFX) nhằm thay thế cho đội tàu hộ vệ lớp Pohang và Ulsan trước đó. Lớp tàu Incheon được đưa vào hoạt động vào năm 2001 và FFG-811 là chiếc đầu tiên trong số 3 chiếc đang hoạt động với các nhiệm vụ đa dạng như hộ vệ bờ biễn, chống ngầm và công tác vận tải hậu cần. Theo kế hoạch, lớp Incheon sẽ tiếp tục được nâng cấp trong tương lai nhằm bổ sung khả năng phòng không và tăng cường sức mạnh diệt tàu ngầm.Sơ lược về quá trình phát triển của tàu khu trục lớp Incheon
Vào đầu những năm 1990, chính phủ Hàn Quốc lên kế hoạch phát triển đội tàu hộ vệ bờ biển thế hệ mới với tên gọi Frigate 2000. Tuy nhiên, kế hoạch đã bị hoãn lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á vào năm 1997. Trước tình hình đội tàu khu trục lớp Gearing và lớp Ulsan đã già cỗi, sắp hết thời gian vận hành đã thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu phát triển đội tàu chiến mới. Cuối cùng, dự án Future Frigate eXperimental (FFX) đã được khởi động vào đầu những năm 2000.
Khoang điều khiển, tháp radar và khẩu pháo MK-45 127mm trên tàu
Lực lượng hải quân Hàn Quốc yêu cầu phải có 24 chiếc tàu khu trục 3000 tấn nhằm thay thế cho đội 37 chiếc tàu đã lỗi thời. Sau đó, họ quyết định rằng 6 chiếc tàu 2700 tấn sẽ được đóng ngay lập tức. Vào năm 2008, mục tiêu tiếp tục được giảm xuống còn 3 tàu 2300 tấn sẽ được đóng trong giai đoạn đầu (đợt 2 sẽ tăng lên tổng cộng 15 chiếc).
Một góc tháp radar nhìn từ boong trước
Lô tàu thứ 2 được chuyển sang đóng bởi Tập đoàn đóng tàu và kỹ thuật hải quân Daewoo, sử dụng bố trí turbine khí đôi thay cho thiết kế 1 động cơ MT30 của Rolls Royce, đồng thời hệ thống động lực của tàu mới cũng dùng điện. Mặt khác, lô tàu thứ 2 cũng được bổ sung thêm hệ thống phóng tên lửa đất đối không kiểu thẳng đứng với hành trình dài hơn, thêm tên lửa chống ngầm và khoang chứa trực thăng lớn hơn (10 tấn).
Phần boong sau tàu đang dựng rạp dã chiến để đón khách tham quan
Vào năm, công tác chế tạo chiếc khu trục hạm đầu tiên được chuyển sang cho Tập đoàn công nghiệp nặng Hyundai và cuối cùng vào ngày 29 tháng 4 năm 2011, chiếc khu trục hạm đầu tiên thuộc lớp Incheon ra đời với số hiệu FFG-811. Con tàu được đặt tên theo tên của thành phố cảnh phía tây Hàn Quốc Incheon, nói lên quyết tâm bảo vệ các quần đảo phía Tây của họ đang trong xung đột liên tục với hải quân CNDCND Triều Tiên.
Hệ thống hỗ trợ kết hối internet, GPS, nhận gởi tin nhắn SMS, fax,... trên tàu
Chi phí 232 triệu đô la cho mỗi chiếc khu trục hạm có tải trọng choán nước 2300 tấn (3251 tấn khi đầy tải, một số nguồn tin của Hàn Quốc vẫn tuyên bố là 2800 tấn), dài 114 mét, sườn ngang 14 mét, mớn nước 4 mét, thủy thủ đoàn 140 người. Được hỗ trợ bởi 2 động cơ Diesel MTU 12 V 1163 Tb83 và 2 động cơ turbine khí GE LM2500, FFG-811 có thể đạt vận tốc cực đại 30 hải lý/giờ (56 km/h) và 18 hải lý/giờ (33 km/h) ở mức độ hoạt động tuần tra.
Khí tài quân sự trên khu trục hạm FFG-811
Vũ khí chính trên những chiếc khu trục hạm lớp Incheon là khẩu pháo hải quân Mk 45 Mod 4 cỡ nòng 127 ly nhằm phục vụ công tác hỗ trợ đổ bộ và chiếm ưu thế trong những tình huống đối đầu trực tiếp với tàu khác. Hệ thống phòng thủ điểm bao gồm 1 khẩu pháo chống tên lửa diệt hạm Phalanx CIWS cỡ nòng 20 ly và 1 hệ thống phóng tên lửa đất đối không RIM-116 Rolling Airframe sức chứa 21 quả. Vũ khí chống ngầm của FFG-811 được đảm nhận nhờ vào hệ thống phóng ngư lôi K745 LW Cheong Sahng-uh (cá mập xanh). Khả năng đối đầu trực diện với tàu đối phương do hệ thống phóng tên lửa diệt hạm tầm xa SSM-700K Hea Sung (Sao Biển) với sức mạnh tương đương với tên lửa Harpoon của Hoa Kỳ. Cuối cùng là hệ thống tên lửa hành trình Hyunmoo IIIC (Hộ vệ trời bắc) đảm nhận công tác tấn công các mục tiêu trên đất liền với sức mạnh tương đương Tomahawk của Hoa Kỳ. Quảng cáo
Pháo hạng nhẹ MK45 127 mm
Hình ảnh khẩu pháo hạng nhẹ MK-45 cỡ nòng 127 ly
Mk45 127 ly là khẩu pháo hạng nhẹ do BAE Systems (Hoa Kỳ) phát triển từ năm 1968, chính thức đưa vào sản xuất vào năm 1971. Mk 45 trên FFH 145 là phiên bản Mod 2 (đang trên lộ trình nâng cấp lên Mod 4 với nòng 62, dài hơn các bản cũ) bao gồm 2 thành phần chính là nòng pháo 127 ly L54 Mark 19 và bệ pháo Mark 45. với khả năng chủ yếu là tấn công tàu chiến đối phương trên mặt nước, phòng không và pháo kích vào bờ biển để hỗ trợ cho lực lượng thủy quân lục chiến trong quá đổ bộ, tấn công nhanh. Mk 45 được trang bị bộ nạp pháo tự động sức chứa 20 viên, có thể bắn hoàn toàn tự động và thời gian nạp pháo giữa mỗi lần bắn chưa tới 1 phút. Để vận hành liên tục Mk 45 đòi hỏi cần có 6 quân nhân trên boong tàu (chỉ huy pháo, người điều khiển và 4 người tiếp đạn) để có thể tác chiến liên tục.
Phalanx CIWS
Phalanx CIWS được xếp vào nhóm vũ khí tầm gần nhằm phòng thủ chống lại tên lửa diệt hạm. Nó được thiết kế và sản xuất bởi General Dynamics Corporation , Pomona Divvision (đã đổi tên thành Raytheon). Một hệ thống Phalanx CIWS bao gồm 1 khẩu Gatling cỡ nòng 20 ly dẫn đường bằng radar gắn giữa tháp trượt xoay. Hiện tại, đây là loại vũ khí được nhiều lực lượng hải quân trên thế giới sử dụng, đáng chú ý nhất là trên mỗi lớp tàu tác chiến trên biển của Hoa Kỳ và 16 đồng minh khác đều sử dụng loại vũ khí này.
Thành phần cơ bản của một hệ thống Phalanx CIWS là khẩu pháo Gatling tự động M61 Vulcan 6 nòng cỡ 20 ly được sử dụng trong quân đội Hoa Kỳ từ những năm1960 trong hầu hết những chiếc máy bay tiêm kích. Nó được dẫn đường bằng hệ thống radar băng tần Ku nhằm xác định chính xác mục tiêu. Toàn bộ hệ thống nặng từ 5,5 đến 6,1 tấn này thực hiện một chu trình khép kín và tự động, gắn kết khẩu súng, hệ thống kiểm soát và các thành phần khác, nhằm tự tìm kiếm, tiêu diệt mục tiêu và báo kết quả về máy tính điều khiển. Nhờ vào khả năng tự động vận hành nói trên nên Phalanx CIWS rất thích hợp để trang bị cho các loại tàu chiến hỗ trợ vốn thiếu hệ thống nhắm mục tiêu thích hợp và hạn chế về mặt cảm biến.
Quảng cáo
Tên lửa đất đối không RIM-116 Rolling Airfram Missile
Một hệ thống vũ khí đánh chặn tầm gần khác trên FFG-811 chính là tên lửa đất đối không dẫn đường bằng hồng ngoại RIM-116 Rolling Airfram Missile (RAM) Block 1 với kích thước nhỏ, trọng lượng nhẹ, dẫn đường bằng hồng ngoại và được sử dụng không chỉ bởi Hàn Quốc, mà còn nhiều lực lượng hải quân khác bao gồm Hoa Kỳ, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Nhật Bản, Saudi và Ai Cập. Được đồng phát triển bởi Hoa Kỳ và Đức, RAM được phát triển đầu tiên như một loại vũ khí phòng thủ điểm chống lại tên lửa hành trình diệt hạm. Tên gọi Rolling xuất phát từ khả năng xoay quanh trục dọc của tên lửa khi thoát ra khỏi ống phóng nhằm tăng độ ổn định của đường bay.
Phiên bản được trang bị trên FFG-811 là RAM Block 1 (RIM-116B), một bản nâng cấp từ bản trước đó là Block 0 (Còn được gọi là RIM-116A). Nó sử dụng tên lửa đất đối không AIM-9 Sidewinder (mỗi quả 665.000 đô la) có trang bị sẵn động cơ đẩy, kíp nổ và đầu đạn. Phiên bản Block 0 chủ động phát hiện ra bức xạ phát ra từ mục tiêu (thông tin về tên lửa diệt hạm đang bay tới hiện trên radar), sau đó một đầu dò hồng ngoại sẽ dẫn đường tên lửa di chuyển tới nguồn gốc của bức xạ và theo bài test mới nhất, tên lửa phóng bởi Block 1 có tỷ lệ tiêu diệt đối thủ lên tới 95%.
Tên lửa chống hạm SSM-700K Haeseong II
Khi trực chiến với tàu của đối phương, FFG-811 sẽ sử dụng hệ thống tên lửa hành trình chống hạm SSM-700K Haeseong II (Nâng cấp từ Heaseong I do Cục phát triển quân sự quốc phòng Hàn Quốc (ADD) và Lực lượng hải quân Hàn Quốc phát triển hồi năm 2003). Mỗi hệ thống mang theo từ 8 đến 16 quả tên lửa. SSM-700K được thiết kế chủ yếu nhằm tác chiến với các tàu khác trên biển dưới sự hỗ trợ của các hệ thống dò tìm sóng cao tầng, cao độ kế sóng radio, hệ thống dẫn đường quán tính, hệ thống gây nhiễu điện tử và động cơ phản lực cánh quạt.
Tên lửa hành trình Hyumoo-3
Cuối cùng là hệ thống tên lửa hành trình Hyunmoo-3 do Cục phát triển quân sự quốc phòng Hàn Quốc (ADD) phát triển, cho phép tàu FFG-811 có khả năng tiêu diệt các mục tiêu trên đất liền. Tên gọi Hyunmoo được đặt theo tên của một quái vật trong thần thoại, được mô tả là "Người hộ vệ bầu trời phía Bắc." Đây là phiên bản cải tiến từ thế hệ tên lửa Hyunmoo SSM trước đó (tiền thân là tên lửa đất đối không Nike Hercules) được thiết kế cho nhu cầu đất đối đất.Tuy nhiên, Hyunmoo-3 lại mang thiết kế gần như tương tự như tên lửa hành trình Tomahawk của Hoa Kỳ. Hyunmoo-3 có 3 phiên bản là A, B, C lần lượt tương ứng với tầm bắn 500, 1000 và 1500 km. Tương tự như các kiểu tên lửa hành trình hạ âm khác, Hyunmoo-3 sử dụng động cơ phản lực cánh quạt cho phép mang theo đầu đạn 500 kg đi với vận tốc Mach 1.2. Tổ hợp phóng tên lửa còn bao gồm hệ thống dẫn đường quán tính (IGS) và hệ thống định vị toàn cầu (GPS).